Tìm hiểu các thể thơ Việt Nam được sử dụng phổ biến nhất

Date:

Nước ta có một kho tàng thơ ca hết sức đồ sộ với nhiều thể thơ đa dạng và phong phú. Trong chương trình THCS và THPT, các bạn học sinh sẽ bắt gặp rất nhiều thể thơ khác nhau. Dưới đây Tạp chí giáo dục sẽ giới thiệu với các bạn các thể thơ Việt Nam được sử dụng phổ biến nhất hiện nay nhé!

Các thể thơ Việt Nam có đặc điểm với quy luật bằng, trắc và cách gieo vần khác nhau. Trong bài viết dưới đây chúng tôi sẽ thống kê cho các bạn tham khảo những thể thơ Việt Nam được sử dụng phổ biến nhé!

Thể thơ lục bát

Thể thơ lục bát

Lục bát là thể thơ lâu đời nhất của dân tộc ta. Thể thơ này đặc trưng bởi cách sắp xếp các câu thơ xen kẽ trên 6 chữ dưới 8 chữ. Thông thường khi mơ đầu một bài thơ lục bát sẽ là câu sáu chữ và kết thúc của bài thơ lục bát được dùng để kết bài. Một bài thơ lục bát thường không giới hạn bởi số lượng các câu. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp thể thơ lục bát xuất hiện trong các bài đồng dao, ca dao hay qua lời ru của mẹ.

Luật bằng trắc của thơ lục bát

Luật bằng trắc trong thể lục bát được quy định như sau:

  • Câu 1, 3 và 5 sẽ tự do về thanh
  • Câu 2, 4 và 6: Câu lục sẽ tuân theo luật B – T – B. Câu bát tuân theo luật B – T – B – B

Cách gieo vần

Cách gieo vần của thể thơ lục bát sẽ vô cùng linh hoạt. Các bạn có thể gieo vần bằng ở tiếng cuối câu lục, và tiếng cuối này lại có thể hiệp vần với tiếng thứ sáu của câu bát nối tiếp. Sau đó, tiếng cuối của câu bát này lại có thể hiệp với tiếng cuối của câu lục tiếp theo… Cứ như vậy luân phiên cho tới khi hết bài thơ.

Ví dụ:

“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Xem thêm: Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật

Thể thơ song thất lục bát

Thể thơ song thất lục bát

Thơ song thất lục bát cũng là một trong những thể thơ truyền thống của người Việt Nam sáng tạo nên. Ở thể thơ này, các bạn sẽ bắt gặp cấu trúc gồm hai câu 7 chữ kết hợp với một cặp lục – bát. Đặc biệt, thể thơ song thất lục bát cũng không giới hạn số lượng câu.

Luật bằng trắc của thơ

Thể thơ song thất lục bát có luật bằng – trắc được quy định như sau:

  • Câu 7 chữ ở trên: Các chữ thứ 3, 5 và 7 sẽ theo quy luật là T – B – T
  • Câu 7 chữ ở dưới: Các chữ thứ 3, 5 và 7 theo quy luật B – T – B

Cách gieo vần

Thể thơ song thất lục bát gieo vần ở tiếng cuối của câu bảy chữ ở trên hiệp với tiếng thứ 5 của câu bảy chữ ở dưới. Tiếng cuối của câu bảy chữ ở dưới sẽ hiệp vần với tiếng thứ 6 của câu lục. Tiếng cuối của câu lục sẽ hiệp với tiếng thứ 6 của câu bát. Cứ như vậy lặp lại cho tới kết thúc bài thơ.

Ví dụ:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

(Chinh Phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)

Thể thơ Đường luật

Thể thơ Đường luật

Thể thơ Đường luật có nguồn gốc từ Trung Quốc. Thể thơ này sau khi được du nhập vào Việt Nam đã được kế thừa và phát triển với nhiều thay đổi tích cực. Thể thơ Đường luật yêu cầu rất nghiêm ngặt về luật bằng – trắc cũng như cách gieo vần trong các câu thơ. Khi làm thơ Đường luật không được phép phá vỡ tính quy luật của nó.

Luật bằng trắc của thơ

Tính quy luật của thể thơ thất ngôn bát cú đường luật vô cùng nghiêm ngặt và khó có thể bị phá vỡ. Số chữ trong một câu và số câu trong cả bài thơ cũng phải tuân theo quy luật riêng. Thể thơ này được biến tấu thành 2 loại cơ bản đó là:

– Thể thất ngôn tứ tuyệt bao gồm 4 câu, mỗi câu có 7 chữ.

Ví dụ:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”

(Chiều tối – Hồ Chí Minh)

– Thể thất ngôn bát cú đường luật bao gồm 8 câu, mỗi câu có 7 chữ. Cấu trúc của thể thơ này rất đặc trưng theo dạng Đề  – Thực – Luận – Kết bao gồm 2 câu đầu (mở đề và vào đề), câu 3 và 4 (câu thực), câu 5 và 6 (câu luận), câu 7 và 8 (câu kết).

Ví dụ:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

(Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

– Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt bao gồm 4 câu, mỗi câu 5 chữ.

Ví dụ:

Đoạt sóc Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu nỗ lực,
Vạn cổ thử giang san.

(Phò giá về kinh – Trần Quang Khải)

Thể thơ bốn chữ

Thể thơ bốn chữ

Thể thơ bốn chữ cũng rất thường gặp. Đây là thể thơ mà mỗi câu thơ gồm 4 chữ và trong 1 bài không giới hạn số lượng câu.

Luật bằng trắc của thơ

Luật bằng – trắc trong thể thơ này sẽ được quy định như sau bắt đầu chữ thứ 2 và chữ thứ 4 có sự luân phiên T – B hoặc B – T

Cách gieo vần

Thể thơ bốn chữ được gieo vần một cách khá linh hoạt, các câu có thể hiệp vần chéo, vần bằng, vần liền, vần chân, vần lưng…

Ví dụ:

“Mùa xuân đi rồi
Nhiều hoa vắng mặt
Như chị hoa đào
Ra đi trước nhất

(Tế Hanh – Hoa cỏ)

Thể Thơ Năm Chữ

Thể Thơ Năm Chữ

Thể thơ năm chữ là dạng thơ mà mỗi câu thơ gồm 5 chữ. Trong bài số câu thơ sẽ không bị giới hạn.

Luật bằng trắc của thể thơ

Quy luật bằng trắc và cách gieo vần của thể thơ 5 chữ tương tự với thể thơ 4 chữ ở phía trên.

Ví dụ:

“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”

(Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)

Thể thơ sáu chữ

Thể thơ sáu chữ

Thể thơ 6 chữ là thể thơ mà tất cả các câu trong bài đều gồm 6 chữ. Cách gieo vần khá đặc biệt có thể gieo vần ôm hoặc vần chéo.

Ví dụ:

“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay”

(Quê hương – Đỗ Trung Quân)

Thể thơ bảy chữ

Thể thơ bảy chữ

Thể thơ 7 chữ là thể thơ mà mỗi câu thơ sẽ đều bao gồm gồm 7 chữ. Mỗi bài thơ cũng không bị khống chế về số lượng câu.

Ví dụ:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

(Tràng giang – Huy Cận)

Thể thơ tám chữ

Thể thơ tám chữ

Thể thơ tám chữ là bài thơ được làm với các câu gồm 8 chữ, bài thơ không giới hạn về số lượng câu.

Quy luật bằng trắc của thể thơ tám chữ

Tiếng cuối và tiếng thứ 3 của câu thơ có vần trắc thì tiếng thứ 5 và tiếng thứ 6 là vần bằng và ngược lại.

Cách gieo vần

Câu thơ sẽ được gieo vần ôm, vần chéo và vần tiếp

Ví dụ:

Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà
Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ

(Nguyễn Khoa Điềm – Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)

Thể thơ tự do

Thể thơ tự do

Thể thơ tự do là thể thơ hiện đại. Thể thơ này giúp thể hiện được sự cái tôi và sự phá cách, sáng tạo của người thi sĩ. Điều đặc biệt của thể thơ tự do là số chữ trong câu, hay số câu trong một khổ và số lượng khổ thơ của bài cũng không bị giới hạn.

Luật bằng trắc của thơ

Quy luật về hiệp vần, bằng trắc của thể thơ tự do cũng vô cùng linh hoạt, tùy theo cảm xúc và chủ ý của người viết.

Ví dụ:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

(Sóng – Xuân Quỳnh)

Trên đây Tạp Chí Giáo Dục đã giới thiệu các thể thơ Việt Nam được sử dụng nhiều nhất hiện nay. Hy vọng sẽ giúp các em học sinh hiểu thêm về các thể thơ được sử dụng trong các tác phẩm văn học.

Share post:

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here