Phân tích bài thơ sang thu của Hữu Thỉnh

Date:

Mùa thu luôn là nguồn cảm hứng bất tận của những người thi sĩ. Trong kho tàng thơ ca Việt Nam có rất nhiều bài thơ về mùa thu nổi tiếng có thể kể đến như: Đây mùa thu tới, Thu Điếu, Thu Ẩm…Và không thể không nhắc đến bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh. Trong bài thơ này một cảm nhận về mùa thu vô cùng khác lạ đã được nhà thơ gửi đến cho độc giả. Tham khảo bài viết dưới đây chúng ta cùng phân tích bài thơ Sang Thu một cách chi tiết nhất nhé!

Giới thiệu đôi nét về tác giả Hữu Thỉnh

Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942 tại Phú Vinh – Duy Phiên – Tam Đảo (Tam Dương) – Vĩnh Phúc. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học. Tuổi thơ của ông vô cùng khổ cực khi 6 tuổi đã ở với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu. Sau đó ông bị bắt làm lao dịch cho các đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân.

Đến năm 1954 sau khi hòa bình lập lại, Hữu Thỉnh mới được đến trường.Đến năm 1963 sau khi tốt nghiệp phổ thông và tham gia nhập ngũ, trở thành lính của Trung đoàn 202. Năm 1975 giải phóng miền Nam, Hữu Thỉnh trở về theo học trường Viết văn Nguyễn Du. Ông là một trong số những học sinh khóa đầu tiên của trường. 

Từ năm 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam và trở thành Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ. Ông còn tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký khoá 3.

Trong quá trình sáng tác thơ văn của mình Hữu Thỉnh có rất nhiều tác phẩm để đời. Chúng ta có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như: “Thương lượng với thời gian”, “Sang thu”, “Âm vang chiến hào”…

Dàn ý phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh:

Dàn ý phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh

I. Mở bài

Giới thiệu đôi nét về tác giả Hữu Thỉnh và liên hệ tới bài thơ Sang thu. 

II. Thân bài

1. Phân tích khổ thơ đầu

Động từ “Bỗng” trong câu thơ đầu tiên thể hiện việc tác giả bị giật mình, khi nhận ra hương ổi đã phả vào trong gió. Nó mang đến cảm giác sững sờ, ngạc nhiên.

Tác giả đã sử dụng “hương ổi” – một loại quả đặc trưng của mùa thu để báo hiệu mùa thu đã về.

Động từ “Phả” chỉ hành động rất mạnh mẽ cho thấy mùa thu như đang gõ cửa trước ngõ. 

Tính từ “Chùng chình” giúp chúng ta liên tưởng đến cảm giác chậm chạp, lững thững. 

=> Ngay khổ thơ đầu, ta thấy mùa thu được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa bằng sự cảm nhận của các giác quan hết sức tinh tế đó là: hương ổi, gió, sương,… Chỉ qua bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng đã giúp cho bạn đọc có thể hình dung ra bức tranh mùa thu nơi quê nhà thanh bình.

2. Phân tích khổ thơ thứ hai

Hình ảnh “dòng sông” trong câu thơ đã không còn chảy vội vã. Nó dường như chảy chậm lại để cảm nhận, tận hưởng vẻ đẹp yên bình của mùa thu.

Đàn chim lúc này đã biết hối hả đi kiếm thức ăn và sửa soạn lại tổ ấm của mình để chuẩn bị cho mùa đông khắc nghiệt sắp đến.

Đám mây trên bầu trời đã không còn mang màu xanh biếc của mùa hè oi bức. Đám mây mùa thu đã có sự biến đổi trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn uốn mình thành những đường cong mềm mại để “vắt nửa mình” sang mùa thu.

Động từ “vắt” trong câu thơ thể hiện sự dí dỏm và đáng yêu của đám mây. Đồng thời, nó cũng thể hiện được sự lưu luyến không khí của mùa hè rộn rã.

→ Bốn câu thơ trong khổ thơ thứ hai đã khắc họa một cách tinh tế những chuyển tinh tế của cảnh vật và thời tiết từ mùa hè sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại trong giây phút giao mùa đó lại có đặc trưng riêng. Những tựu chung, chúng đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thi vị hơn.

3. Khổ thơ cuối

Khổ thơ này tác giả đã cho chúng ta thấy dư âm của mùa hạ vẫn còn là: ánh nắng, hay những cơn mưa và đôi ba tiếng sấm giòn trên hàng cây đứng tuổi. Lúc này, cả trời đất dường như đã trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn. Và không còn bất ngờ và gắt gỏng như mùa hè nữa. 

Trong hai câu thơ cuối cùng hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ của những cơn mưa rào mùa hạ đã bớt bất ngờ hơn.  Những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời đã không còn làm cho những “hàng cây đứng tuổi” phải xao động nữa. Hình ảnh hàng cây đã gợi tả những con người từng trải. Họ đã vượt qua nhiều khó khăn và thăng trầm của cuộc đời nên càng trở nên vững vàng hơn.

III. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Sang Thu. Đồng thời bạn cũng nêu ra cảm nghĩ về giá trị của tác phẩm.

Xem thêm: Tóm tắt vợ chồng a phủ

Sơ đồ tư duy bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh

Sơ đồ tư duy bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh

Các mẫu bài viết phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh

Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 1:

Trong một năm chúng ta có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Và mùa thu được xem là cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm thi ca, nhạc họa. Trong Văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ về mùa thu rất hay như: Chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến, “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư hay “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu… Và không thể kể đến một tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Hữu Thỉnh đó chính là “Sang thu”. Bài thơ đã thể hiện cảm nhận riêng của tác giả về thời tiết khi chuyển từ cuối hạ sang đầu thu. 

Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 và in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố” của nhà thơ Hữu Thỉnh. Bài thơ thể hiện được phong cách thơ thiết tha đầy sâu lắng của tác giả. Ngay từ những câu thơ mở đầu, ta đã thấy những cảm nhận vô cùng tinh tế của nhà thơ khi nhắc đến những tín hiệu sang thu trong một không gian rất gần và hẹp:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se

Tín hiệu đầu tiên được Hữu Thỉnh nhắc đến báo hiệu sang thu đó chính là “hương ổi” bay phảng phất trong gió se. Hương ổi chín thơm lừng ấy, vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Quen thuộc vì khi nhắc đến nó là ta nghĩ ngay đến mùi ổi chín trong vườn nhà. Nếu như các nhà thơ khác cảm nhận mùa thu đến với lá vàng rơi. Thì nhà thơ Hữu Thỉnh lại có sự cảm nhận mới mẻ hơn khi sử dụng hương của ổi chín để báo hiệu mùa thu về. Động từ “phả” đã giúp chúng ta cảm nhận được một mùi hương nồng nàn, đậm đà, lan tỏa trong gió se. Và loại gió se se lạnh đó cũng chỉ có trong mùa thu. 

Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Và khi mùa thu đến không chỉ có gió, có hương ổi mà còn có cả làn sương. Trong không gian lãng mạn của mùa thu, làn sương đã được tác giả nhân hóa qua động từ “chùng chình”. Động từ này có tác dụng gợi tả những làn sương mỏng manh, nhẹ nhàng như cố ý chậm lại. Chúng ta như cảm nhận thấy làn sương còn chưa muốn bước sang thu vẫn còn đang cố gắng lưu luyến. 

Nếu như khổ thơ đầu, chúng ta thấy không gian của trời thu được co hẹp trong chỉ trong một con ngõ. Thì sang đến khổ thơ thứ hai không gian mùa thu đã được mở rộng về biên độ với tầm nhìn cao và xa hơn. Tác giả đã đặt điểm nhìn từ mặt đất lên bầu trời:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Hình ảnh dòng sông trong câu thơ đã được nhân hóa qua từ láy “dềnh dàng”. Từ này có nghĩa chỉ sự chậm chạp, thong thả. Ta thấy dòng sông đã không còn cuồn cuộn sau những cơm mưa của mùa hạ nữa. Mà thay vào đó, dòng chảy của dòng sông đã trở nên lững lờ trôi. Dường như cả dòng sông cũng đang ngập ngừng như muốn níu kéo mùa hạ chưa muốn sang mùa thu. 

Nhưng ngược lại với phong thái dềnh dàng của dòng sông chính là trạng thái “vội vã” của những cánh chim. Chúng đang mải miết bay đi tìm nơi tránh rét. Những hình ảnh đối lập ở hai câu thơ đã làm cho không gian thu trở nên rộng mở hơn, rất khoáng đạt. Từ sông rộng, tác giả đã di chuyển điểm nhìn lên đến trời cao. 

Khép lại khổ thơ thứ hai chúng ta thấy hình ảnh đám mây được nhân hóa với hành động “vắt nửa mình sang thu”. Hình ảnh đầy chất sáng tạo này đã giúp diễn tả sự vận động của thời gian. Đám mây trên trời được ví như một tấm lụa treo ngang trên bầu trời. Và đám mây ấy cũng chính là ranh giới giữa hai mùa hạ – thu. Trong cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến đó, nhà thơ Hữu Thỉnh đã thể hiện những rung động mãnh liệt của bản thân trước giây phút giao mùa.

Bắt đầu sang khổ thơ thứ ba, nhà thơ chuyển hẳn giọng thơ sang giọng điệu suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

Chúng ta thấy nhà thơ đã thật tinh tế và nhạy cảm khi phát hiện ra những thay đổi về mặt thời tiết. Ông đã cảm nhận được cả sự khác nhau của sấm, mưa, nắng, của mùa hè với những hiện tượng thời tiết này ở mùa thu. Cái nắng lúc này không còn chói chang mà đã dần nhạt màu, đã vơi dần những cơn mưa rào bất chợt của mùa hạ. Và đặc biệt là những tiếng sấm đã bớt bất ngờ hơn. Từ hiện tượng của thiên nhiên, nhà thơ Hữu Thỉnh đã thể hiện được sự suy ngẫm và chiêm nghiệm về cuộc đời:

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

“Sấm” được xem là hình ảnh ẩn dụ, biểu trưng cho khó khăn, vất vả trong cuộc đời mỗi con người. Và hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” được sử dụng để biểu trưng cho những người từng trải. Họ cũng như những hàng cây  đã trải qua biết bao nhiêu mùa bão giông với những biến thiên của trời đất. Họ đã đi qua biết bao nhiêu những khó khăn, vất vả, hiểm nguy trên đường đời. 

Bài thơ Sang Thu được viết theo thể năm chữ độc đáo. Kết hợp với hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi đã có tác dụng diễn tả những trạng thái của cảnh vật trong lúc giao mùa. Mỗi câu thơ trong bài thể hiện sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm của thi nhân trước sự chuyển mình của vũ trụ khi bắt đầu sang thu. Thông qua bài thơ, chúng ta thấy được sự mới mẻ trong cách cảm nhận mùa thu của nhà thơ Hữu Thỉnh. Đồng thời chúng ta cũng cảm thấy được tình yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước sâu sắc của nhà thơ.

Đọc thêm: Phân tích bài thơ sang thu

Mẫu 2: Phân tích bài thơ sang thu của Hữu Thỉnh

Phân tích bài thơ sang thu của Hữu Thỉnh

Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977, in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”. Ngay từ nhan đề của bài thơ đã giúp gợi cho người đọc về nội dung chính của bài thơ. Tác giả đã miêu tả cảm nhận của bản thân về khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên. Sau đó là thể hiện được sự chiêm nghiệm và chiết lý nhân sinh quan của đời người. 

Khổ thơ đầu của bài thơ Sang Thu, tác giả Hữu Thỉnh đã nêu ra những cảm nhận vô cùng tinh tế. Đó là sự cảm nhận của các giác quan nhạy bén của tác giả để cảm biết được hết những mong manh tín hiệu khi thu về:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Tác giả sử dụng động từ “bỗng” để thể hiện sự bất ngờ của bản thân khi thấy mùa thu về. Đầu tiên, tác giả cảm nhận mùa thua qua hương ổi, một mùi hương thật thân quen, gần gũi. Hương ổi kết hợp với từ “bỗng” đã giúp chúng ta thấy được cảm giác đột ngột và ngỡ ngàng của tác giả. Sau đó là động từ “phả” cho ta thấy mùi hương ấy thật đậm có thể hòa vào cơn gió se len lỏi đến mọi ngóc ngách. Mùa thu trong tiềm thức của Hữu Thỉnh rất đặc biệt. Không chỉ thể hiện qua lá vàng rơi mà còn thể hiện qua mùi hương quen thuộc đó là hương ổi. Mùi hương ấy còn khiến ta liên tưởng đến một không gian rất làng quê . 

Tiếp theo trong khổ thơ, chúng ta thấy tác giả miêu tả đến màn “Sương chùng chình” đang đi qua ngõ. Sương đã được tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để có dáng vẻ như con người đi khoan thai, chậm lại. Đến làm sương cũng vẫn còn đang quyến luyến, cố đi chậm thật chậm để tận hưởng nốt cái ấm áp của mùa hè. Khổ thơ đầu tiên sử dụng hệ thống những hình ảnh độc đáo kết hợp với các động mạnh đã giúp thể hiện được tín hiệu của mùa thu. Khi mùa thu đã về, lòng người cũng có sự băn khoăn, xốn xang. Nên tác giả mới dùng từ “Hình như” để diễn đạt cảm xúc mơ hồ của mình. 

Sang đến khổ thơ thứ hai, những băn khoăn của tác giả ở khổ thơ trên đã được giải đáp một cách rõ ràng bằng những tín hiệu của mùa thu như sau:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Chún ta thấy khúc sông lúc này đang “dềnh dàng” chảy chậm lại. Không còn thấy sự dữ dội của những dòng nước cuồn cuộn khi mưa hè về. Thay vào đó là dòng sông bước vào thu vô cùng tĩnh lặng, nước lững lờ chảy như ngẫm ngợi điều gì. Trong câu thơ này chúng ta thấy được nghệ thuật nhân hóa khiến cho dòng sông được ví như đang nghỉ ngơi sau một mùa hạ cuồn cuộn chảy xiết.

Nhưng ngược lại với hình ảnh lững lờ của dòng sông đó chính là hình ảnh những chú chim lại vội vã về phương Nam tránh rét. “Chim bắt đầu vội vã” khi cảm nhận được cái se se lạnh của mùa thu. Một trong những hình ảnh đặc sắc nhất của khổ thơ này đó chính là đám mây mùa hạ nằm “vắt nửa mình sang thu”. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa khiến cho đám mây cũng như con người biết lưu luyến khi vắt từ hạ sang thu. 

Và sang đến khổ thơ thứ ba, ta lại cảm nhận được sự tinh tế của Hữu Thỉnh khi cảm nhận mùa thu đã về. Ông đã nhạy cảm khi nhận ra sự thay đổi rất nhỏ của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa. Cụ thể như:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa

Hữu Thỉnh biết mùa thu đã sang nhưng trên trời “vẫn còn bao nhiêu nắng”. Việc sử dụng linh hoạt phép đối “vẫn còn – vơi dần” hay “nắng – mưa” đã gợi lên sự vận động ngược chiều của các hiện tượng thiên nhiên trong hai mùa. Khi sang mùa thu thì những mưa mùa hè đã vơi dần. Nắng đã không còn chói gắt mà  ánh nắng đã dịu hơn như màu mật ong.

Tiếp theo chúng ta nhận được dấu hiệu về đã rõ nét hơn về mùa thu. Đó chính là sấm đã bớt bất ngờ hơn. Chúng ta thấy sự tinh tế của Hữu Thỉnh còn được thể trong cách ông sắp xếp từ ngữ giảm dần về mức độ: vẫn còn – vơi – bớt. Lúc này, ta nhận thấy các dấu hiệu của mùa hạ đã nhạt dần đi, các dấu hiệu của mùa thu ngày càng đậm nét hơn. Sang đến hai câu thơ cuối đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, con người của tác giả:

Sấm cũng bớt bất ngờ
Bên hàng cây đứng tuổi

Câu thơ lúc này vừa mang ý nghĩa tả thực lại vừa mang tính biểu tượng. Trước hết là sự tả thực, tác giả đã miêu tả sấm chính là hiện tượng tự nhiên. Nó là dấu hiệu của những cơn mưa rào mùa hạ. Và theo kinh nghiệm dân gian thì sang mùa thu, những tiếng sấm cũng trở nên nhỏ hơn bớt gây chấn động trên những hàng. Tiếng sấm còn còn được sử dụng để chỉ những biến động bất thường của cuộc đời mà con người phải trải qua. Những khó khăn vất vả đó cũng tương ứng với nghĩa biểu tượng của “sấm”. Và  “hàng cây đứng tuổi” được sử dụng để thể hiện cho những người trưởng thành. Họ đã trải qua biết bao sóng gió, giông tố trong cuộc đời. Chính vì thế, những biến động hay thay đổi bất ngờ trong cuộc đời cũng không dễ dàng khiến họ lung lay, gục ngã được nữa. Họ đã tôi luyện cho mình bản lĩnh để trở nên bình tĩnh, ung dung hơn trước những biến cố, thăng trầm của cuộc đời.

Bằng chính sự cảm nhận nhạy bén của các giác quan, Hữu Thỉnh đã ghi lại khoảnh khắc giao mùa của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả còn vẽ lên một bức tranh mùa thu đẹp vớ nhiều hương sắc và phong vị rất đặc trưng của miền Bắc. Với thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu kết hợp ngôn ngữ mộc mạc giản dị mà đã giúp tác giả làm nên thành công của tác phẩm.

Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 3:

Mùa thu là đề tài thân thuộc trong thơ ca dân tộc. Mỗi thi sĩ lại cho ta những cảm nhận riêng dị biệt mang theo dấu ấn tư nhân của riêng tác giả. một trong số ấy phải đề cập tới bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh. Ông ko chỉ là nhà thơ viết rộng rãi viết hay về đề tài con người, về cuộc sống nông thôn mà còn đóng góp vào chùm thơ về mùa thu một cái nhìn rất riêng rất mới lạ.

Bài thơ Sang thu được Hữu Thỉnh sáng tác năm 1977. Bài thơ đã khắc họa cho người đọc thấy được sự kỳ diệu vào thời điểm giao mùa của đất trời. trong khi tất cả những thi sĩ thường mua tới sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng thì Hữu Thỉnh lại sắm đến điểm đặc trưng khác đấy là hương ổi :

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se.”

Ngay ở câu thơ trước tiên cho ta thấy 1 trạng thái giống như vô tình trông thấy một điều gì đó. Trong không gian rộng lớn của trời đất thì nhà thơ bỗng trông thấy dấu hiệu của sự chuyển mùa. nhà thơ không tả mà chỉ gợi đem đến cho người đọc những liên tưởng về màu vàng và hương thơm ngát tỏa ra từ cây ổi mang trái chín trên mảnh đất của quê hương trong những ngày cuối hạ. Hương ổi càng nồng cháy hơn nhờ “gió thu” tương đối se lạnh đã đánh thức các cảm xúc trong lòng người. ko chỉ cảm nhận hương ổi của mùa thu thi sĩ còn cảm nhận màn sương thu bằng khứu giác và xúc giác:

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.”

2 câu thơ nhắc lên các giây lát chuyển mùa rất tinh tế nhưng cũng rất sâu sắc. sở hữu trong khoảng láy tượng hình “chùng chình” khiến người đọc cảm thấy màn sương như đang quyến luyến, ngập dừng ở ngõ của làng quê. giả dụ ở hai câu thơ trứ tác nhái “bỗng nhận ra” hương của mùa thu mô tả cảm xúc kinh ngạc thì ở 2 câu thơ này tác nhái lại “hình như” miêu tả sự phỏng đoán mà tác giả vừa phát hiện và cảm nhận được. một chút ngỡ ngàng một tí bâng khuâng thi sĩ đã phải tự khẳng định rằng mùa thu đã về thật rồi.

Phân tích bài thơ sang thu

Xem thêm: Phân tích bài thơ tràng giang

Phân tích bài thơ sang thu

tới khổ thơ thứ 2 mùa thu được nhà thơ diễn đạt ở không gian rộng to hơn nhắc cả ở chiều cao và chiều rộng:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.”

Mùa thu đã xuất hiện ở khắp mọi nơi rất hiện hình và cụ thể. mẫu sông không còn cuồn cuộn dữ dội như mùa lũ và những cơn mưa rào của mùa hè kéo tới nữa mà “dềnh dành”, thanh tú, bình lặng. ngược lại mang loại sông là những đàn chim lại “bắt đầu vội vã”, thu tới là khi các loài chim phải chuẩn bị những nơi ở lúc mùa đông gần kéo về. Phải qua sự Nhìn vào tinh tế, tận tường của tác nhái mới có thể phát hiện ra các đổi thay của bầu trời khi sang thu. ấy là những “đám mây mùa hạ” như “vắt” sang thu. Bức tranh chuyển mùa thành ra càng trở nên sinh động hơn giàu sức biểu cảm hơn nhờ mang những phát hiện thú vị và cách biểu lộ độc đáo của nhà thơ.

Khổ cuối bài thơ, nhà thơ không trải nghiệm bằng các khứu giác và xúc giác nữa mà bằng các cảm nhận và suy ngẫm, chiêm nghiệm của ông:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.”

Mùa hè với ánh nắng chói chang nóng bức thì mùa thu tuy cũng mang nắng nhưng là ánh nắng dịu nhẹ cộng sở hữu các cơn gió có chút se se lạnh. khi này các cơn mưa cũng vơi dần những tiếng sấm không còn phổ biến như trước nữa. Giọng thơ trầm hẳn xuống ở 2 câu thơ cuối cùng:

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.”

Nắng mưa và sấm là những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa của mùa hạ và mùa thu. Tác fake đã cảm nhận một cách thức tinh tế qua các từ ngữ: “vẫn còn”,” vơi dần”, “bớt bất ngờ”. Mùa thu vẫn còn nắng mưa và những tiếng sấm như mùa hạ nhưng chừng độ thì đã khác. Cụm trong khoảng “hàng cây đứng tuổi” mang lại cho ta nhiều cảm giác liên tưởng tới 1 cây non trưởng thành rồi già cỗi giống như đời người vậy. Trải qua rộng rãi năm tháng vẻ chín chắn, trầm tĩnh của hàng cây trải qua các cơn bão giông và sấm sét không còn bất thần nữa. thấp mùa thu của đời người là sự khép lại các tháng ngày sôi nổi của tuổi xanh để mở ra các năm tháng mới vững vàng điềm đạm hơn.

Bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh đã mang đến bao nhiêu xúc cảm dâng đầy trong những vần thơ đẹp đầy tình yêu khi không của tác giả gợi cho ta các cảm xúc nồng thắm thiết tha sở hữu thiên nhiên. Hữu Thỉnh đã phác họa nên 1 bức tranh đột nhiên tuyệt đẹp phổ biến cảm xúc sâu sắc mà thực tâm.

Tham khảo thêm:

Share post:

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here