$0.00

No products in the cart.

Free shipping on any purchase of 75$ or more!

contact@yourstore.com

+55 123 548 987

$0.00

No products in the cart.

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu | Tạp chí giáo dục

More articles

Việt Bắc là một trong những bài thơ nổi tiếng của tác giả Tố Hữu. Bài thơ là tiếng lòng của tác giả Tố Hữu khi phải rời xa thủ đô gió ngàn Việt Bắc nơi đã gắn bó với biết bao kỷ niệm. Đi phân tích bài thờ Việt Bắc sẽ giúp các bạn cảm nhận được tình quân dân keo sơn gắn bó của những con người Việt Bắc. 

Dàn ý phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu 

1. Mở bài

– Giới thiệu đôi nét về tác giả Tố Hữu: Ông là một nhà thơ trữ tình chính trị lớn của dân tộc. Qua các bài thơ của ông đã phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.

– Giới thiệu đôi nét về bài thơ Việt Bắc về: hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính của bài thơ.

2. Thân bài

  1. Giải thích ý nghĩa nhan đề

– Việt Bắc chính là tên một địa danh của cách mạng Việt Nam trong tiền khởi nghĩa. Nơi đây trước kia chính là địa điểm đặt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp.

– Việt Bắc đã lưu giữ rất nhiều kỉ niệm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào nơi đây.

  1. Lời của người ở lại (20 câu thơ đầu)

– 08 câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia tay:

    + 04 câu thơ đầu tác giả sử dụng điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” đây là lời ướm hỏi giúp khơi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về nghĩa tình với người Việt Bắc.

    + Cặp xưng hô “mình – ta” đã được sử dụng như lời tâm tình của đôi lứa khi yêu nhau. Điều này đã khiến cuộc chia tay trở nên thân mật và giản dị. Cách xưng hô thân mật này còn thể hiện sự đối đáp trong điệu hát giao duyên giữa đôi trai gái. Những câu thơ này đã thể hiện cách mạng không những không khô khan mà  còn rất đằm thắm trữ tình.

    + 04 câu thơ tiếp đã thể hiện sự lưu luyến của cả người ở lại và ra đi. Nó thể hiện qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng như: “da diết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”; không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi: “áo chàm”, “cầm tay nhau”.

– 12 câu thơ tiếp theo có sử dụng điệp từ “nhớ” đó chính là lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi:

    + Tác giả nhớ đến thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc trong những ngày kháng chiến với những hình ảnh thân quen như: mưa nguồn, suối lũ, mây mù, trám bùi, măng mai.

    + Tác giả nhớ đến những ân tình của người dân dành cho cán bộ chiến sĩ trong khó khăn gian khổ: “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”.

    + Tác giả nhớ đến khoảng thời gian hoạt động cách mạng: kháng chiến chống Nhật, phong trào Việt Minh, với các địa danh đã đi vào lịch sử như Tân Trào, Hồng Thái, …

    + Với đại từ xưng hô “mình” đã thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa kẻ ở, người đi. Nó thể hiện sự tâm tình, thủ thỉ chân thành.

  1. Lời của người ra đi

– 04 câu thơ tiếp của bài thơ nhằm khẳng định nghĩa tình thủy chung, mặn mà, “ta với mình, mình với ta”. Nó thể hiện sự gắn bó, thấu hiểu nhau giữ người đi, kẻ ở.

– Người ra đi đã bày tỏ nỗi nhớ đến của mình với thiên nhiên Việt Bắc: “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, ….

– Nỗi nhớ đến con người Việt Bắc:

    + Họ là những con người dù trong gian khó, vất vả nhưng vẫn giữa được tấm lòng thủy chung, son sắc. Họ đã cùng nhau vượt qua “đắng cay ngọt bùi” trong kháng chiến. Họ đã từng “chia củ sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”.

    + Nhắc đến kỉ niệm ấm áp giữa bộ đội và đồng bào Việt Bắc là tác giả nhớ đến: “lớp họ i tờ”, “giờ liên hoan”, “ca vang núi đèo”.

    + Nhớ hình ảnh người dân Việt Bắc với vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của “người mẹ”, “cô em gái”.

– Nhớ đến hình ảnh quân dân Việt Bắc cùng nhau đoàn kết đánh giặc: “ta cùng đánh Tây”, “cả chiến khu một lòng”. Nhớ cả khí thế hào hùng của quân dân ta trong các trận đánh: “rầm rập như là đất rung”, “quân đi điệp điệp trùng trùng”, “dân công đỏ đuốc từng đoàn”, …

– Nhớ đến những chiến công và niềm vui thắng trận: “tin vui thắng trận trăm miền … núi Hồng”

–  Ta thấy nhịp thơ dồn dập như được tạo từ âm hưởng của những bước chân hành quân. Kết hợp với những hình ảnh thiên nhiên mang tính chất hung vĩ. Tất cả đã giúp tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của nhân dân anh hùng.

  1. Niềm tự hào, niềm tin gửi gắm Việt Bắc (16 câu thơ cuối)

– Tác giả nhắc đến hình ảnh tươi sáng nguồn cội của cuộc cách mạng đó là: ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng, có trung ương Đảng, nơi đó có chính phủ và có Bác Hồ.

– Đoạn thơ đã thể hiện được niềm tin vào sức mạnh và khả năng lãnh đạo của Đảng trong các cuộc cách mạng để tạo nên những chiến công tự hào ở Việt Bắc.

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Vợ Chồng A Phủ

III. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nghệ thuật của tác phẩm Việt Bắc: Đoạn thơ sử dụng thể dân tộc: thể thơ lục bát để nói về cách mạng, ngôn từ mộc mạc, giàu sức gợi kết hợp với lối đối đáp giao duyên sử dụng cặp đại từ xưng hô linh hoạt (mình – ta) đã tạo nên một bài thơ nhẹ nhàng tình cảm. 

– Khái quát giá trị nội dung: Bài thơ đã viết lên một bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, là bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến.

Sơ đồ tư duy của bài thơ Việt Bắc

Sơ đồ tư duy của bài thơ Việt Bắc

Các mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu – Mẫu 1:

 Tố Hữu được xem là một trong những nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Trong các bài thơ của ông chúng ta luôn thấy không khí hừng hực của cuộc đấu tranh, bám sát vào từng sự kiện lịch sử. Và Việt Bắc chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào thời điểm chiến thắng Điện Biên Phủ khi hiệp định Giơ ne vơ được ký kết. Lúc này, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, một trang lịch sử mới đã mở ra. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ đã di chuyển từ chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử này, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để thể hiện cuộc chia tay đặc biệt giữa người đi và người ở lại. 

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Mở đầu bài thơ đó chính là lời ướm hỏi và nhắc nhở của đồng bào đối với những người ra đi: “Mình về mình có nhớ ta/…/Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Trong đoạn thơ này, điệp từ “Nhớ” và cấu trúc câu hỏi đồng dạng “Mình về mình có nhớ ta? /…/ Mình về mình có nhớ không?” đã thể hiện được nỗi nhớ có phần da diết, khắc khoải. Những kỉ niệm đã được nhắc tới chính là mười lăm năm khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc cho cách mạng. Với kỉ niệm thứ hai, tác giả đã tái hiện một cách chân thực không gian mình từng gắn bó là sông, núi, nguồn. 

Trong đoạn thơ đã thể hiện hình ảnh hoán dụ “áo chàm” để hiện lên trong buổi tiễn đưa chính là màu sắc đặc trưng của Việt Bắc. Màu sắc này chính là màu núi rừng chiến khu, màu thương nhớ, màu của tình quân dân “đậm đà lòng son”. Và trong suốt mười lăm năm trời làm cách mạng và kháng chiến đó. 

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Trong suốt một chặng đường dài gian lao đó, từ nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến chiến thắng Điện Biên Phủ và đến ngày toàn miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (năm 1954). Câu hỏi của người ở lại đã hòa theo tiếng hát cứ quyện vào tâm hồn, thấm sâu vào lòng người cán bộ kháng chiến khi đã về xuôi: “Mình về có nhớ… Mình đi có nhớ…”. Mình đi có nhớ những tháng ngày “nhóm lửa” gian khổ: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”. “Mình về có nhớ chiến khu” thời đánh Pháp đuổi Nhật “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Tất cả những kỷ niệm trong thiếu thốn khó khăn, thiếu thốn, gian nan. Món nợ nước thù nhà đã gần như khắc sâu hồn người đi. Nó ngày càng chất chứa trong lòng, càng đè nặng đôi vai. “Mình đi…, mình về… có nhớ, nhớ trám bùi, nhớ măng mai, nhớ lau xám, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”. Chúng ta thấy nhớ Việt Bắc là nhớ đồng bào của dân tộc, nhớ đến kỷ niệm trong những ngày gian khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa thủy chung son sắt với cách mạng. Những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng trong thơ Tố Hữu đã mở ra một không gian thương nhớ mênh mông với bao tình nghĩa vơi đầy:

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.

Khi xa Việt Bắc, trên đường về Thủ đôi, người cán bộ kháng chiến đã mang theo bao nỗi nhớ, chất chứa dào dạt trong tâm hồn bao kỉ niệm đẹp và sâu sắc:

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu….

Người đi, người về mang theo bao nỗi nhớ: nhớ mình, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ nắng chiều lưng nương, nhớ bản khói cùng sương, nhớ bếp lửa, nhớ rừng nứa bờ tre, nhớ ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê Nin… Chỉ cần một củ sắn lùi, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui… trong những tháng ngày ấy cũng khiến cho người về không bao giờ quên. Sự đồng cam cộng khổ đã làm cho tình thương nỗi nhớ thêm bồi hồi da diết:

“Thương nhau chia củ sắn lùi,

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.

Những từ ngữ được sử dụng như: thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng…Nó được ví như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân, tình cá nước thêm ấm áp. Khi nhớ chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta lại nhớ mình, nhớ người đến mẹ tần tảo, vất vả: “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.

Điệp từ “nhớ sao” đã diễn tả bao da diết bồn chồn: nhớ sao lớp học i tờ, nhớ sao đuốc sáng những giờ liên hoan; nhớ tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối… Đó như âm thanh của khúc nhạc rừng chiến khu. “Những hoa cùng người” của Việt Bắc trong bốn mùa đã trở thành mảnh tâm hồn của ta cùng với bao nỗi nhớ:

Ta về mình có nhớ ta,

Ta về ta nhớ những hoa cùng người,

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hòa bình,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Đoạn thơ đã vẽ lên được một bức tranh cổ điển đầy màu sắc. Ở đó ta thấy thiên nhiên và con người Việt Bắc được hiện lên một cách ấn tượng và đầy uyển chuyển. Chúng ta thấy màu đỏ tươi của hoa chuối giữa rừng xanh. Hay hình ảnh hoa mơ  “nở trắng rừng” vào mùa xuân. Kết hợp với đó là hình ảnh người thợ thủ công khéo léo đan nón “chuốt từng sợi giang”. Rừng phách trong một buổi chiều mùa hè “đổ vàng” trong tiếng ve và hình ảnh cô em gái Việt Bắc “một mình” đi hái măng. Đó là tiếng hát ân tình thủy chung của ai đó đã cất lên trong rừng thu dưới ánh trăng mát dịu. Tất cả những hình ảnh này đã trở thành nỗi nhớ của ta và của  người cán bộ kháng chiến.Tố Hữu đã gắn bó với Việt Bắc nhiều năm nên ông đã thể hiện được nỗi nhớ ấy một cách rõ ràng như những thước phim quay chậm. 

Chúng ta thấy cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc hiện lên đẹp rực rỡ, đẹp dịu dàng và đầy sức sống. Phong cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng đẹp, cũng thơ mộng. Và con người Việt Bắc được nói đến chính là những con người lao động: những người đi làm nương rẫy, người thợ thủ công hay cô em gái hái măng. Dù trong lao động vất vả, họ vẫn biết cất cao tiếng hát. Tất cả điều này đều thể hiện được những đức tính tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Việt Bắc luôn cần cù, lạc quan yêu đời. 

Nhớ Việt Bắc cũng là tác giả nhớ đến một chiến khu bất khả xâm phạm. Nơi đó có “Núi giăng thành lũy sắt dày”. Nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ đến một vùng đất thần kỳ. Nơi đó có: “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”. Nhớ Việt Bắc khiến tác giả một lần nữa  tự hào về khối đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh chiến thắng quân thù:

Mênh mông bốn mặt sương mù,

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Trong đoạn thơ, tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa ngợi ca chiến khu Việt Bắc như cái nôi của cách mạng Việt Nam “dựng nên Cộng hòa”.. Khi nhớ về Việt Bắc là nhớ đến những nẻo đường chiến dịch, nhớ những địa danh lịch sử. Nơi đó bộ đội ta từng vào sinh ra tử, chiến đấu khiến cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn: “nhớ Phủ Thông, đèo Giàng – Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng – Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà”. Những chiến công đó khiến cho người đi không bao giờ có thể quên. Để lúc ta về ta nhớ cả những con đèo, những dòng sông, những ngọn núi…Và vùng đất nơi ta ở đó  “đã hóa tâm hồn” ta từ những tháng ngày gian khổ và oanh liệt.

Nhớ Việt Bắc là nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những đêm ngày hành quân “rầm rập”. Nhớ Việt Bắc là ta nhớ những binh đoàn “Quân đi điệp điệp trùng trùng” trong ánh sao đêm. Hay nhớ những đoàn dân công vận tải “Bước chân nát đá” theo ngọn đuốc đỏ rực, cùng ánh “đèn pha bật sáng” của đoàn xe kéo pháo ra trận. Trong giọng thơ mang âm điệu anh hùng ca cất lên, ta thấy có tiếng reo ca biểu lộ niềm vui trước khí thế đấu tranh của quân và dân ta trong ba nghìn ngày khói lửa:

Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung.

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Từ quá khứ, tác giả mở ra một hình ảnh đoàn quân ngày càng lớn mạnh, nối tiếp liên tục hành quân trong đêm khuya trong một không gian vô cùng rộng lớn. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh kết hợp với việc sử dụng những từ láy đã giúp diễn tả được: lực lượng đông đảo cũng như sự lớn mạnh hùng hục khí thế hào hùng của quân đội ta. 

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Hình ảnh đoàn quân “điệp điệp, trùng trùng” như gợi tưởng tới những dãy núi, nối tiếp nhau không dứt. Hình ảnh ẩn dụ “ánh sao đầu súng” là hình ảnh thơ trữ tình giúp chúng ta liên tưởng đến lý tưởng cách mạng soi sáng dẫn đường. Thiên nhiên Việt Bắc lúc này như người bạn đồng hành với các chiến sĩ cách mạng. Hình ảnh những bó đuốc rực sáng của đoàn văn công kết hợp với hình ảnh phóng đại “bước chân nát đá” đã thể hiện sức mạnh của lực lượng đông đảo và tinh thần quyết tâm cháy rực chiến thắng mọi gian khổ chông gai. 

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Bức tranh vẽ cảnh ban đêm nhưng không hề tối tăm, ánh sáng đèn pha đã xua đi bóng tối. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh “như ngày mai lên” kết hợp với nhịp thơ mạnh mẽ dồn dập thể hiện được niềm tin tưởng lạc quan vào tương lai tươi sáng của đất nước. Nhớ Việt Bắc cùng nhớ đến niềm vui chiến thắng, tin thắng trận từ mọi nơi trên đất nước báo về đây cùng từ đây mà lan truyền ra.

    “Ai về ai có nhớ không?

    Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

    Nắng trưa rực rỡ sao vàng

    Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

    Ðiều quân chiến dịch thu đông

    Nông thôn phát động, giao thông mở đường

    Giữ đê, phòng hạn, thu lương

    Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

    Ở đâu u ám quân thù

    Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

    Ở đâu đau đớn giống nòi

    Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

    Mười lăm năm ấy ai quên

    Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

    Mình về mình lại nhớ ta

    Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”

Việt Bắc chính là cơ quan đầu não của cách mạng. Nơi đây đã diễn ra toàn bộ những cuộc tham mưu, xây dựng chủ trương của Đảng và Chính phủ, chỉ đạo cho con đường cách mạng. Việt Bắc chính là căn cứ địa vững chắc của cả nước. Nơi khai sinh những con người, những địa danh đã mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc như: đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. Ta thấy vị trí của Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất quan trọng. 

Bài thơ chính là bài ca về sự hào hùng của những năm tháng kháng chiến vừa mang đến nghĩa tình trong tình cảm cách mạng quân dân. Tác giả đã biến hóa và sáng tạo thể thơ lục bát với kiểu vừa dân dã lại vừa hiện đại. Việc sử dụng cách đối đáp trong ca dao dân gian một cách bình dị, nhẹ nhàng mà tha thiết. Nhịp thơ cân xứng có nhạc điệu giúp thấm sâu vào tư tưởng bằng cách sử dụng những đối đáp. Ngôn ngữ như lời ăn tiếng nói mộc mạc và giản dị, ngôn ngữ giàu hình ảnh đầy sáng tạo. Các biện pháp tu từ: nhân hóa, liệt kê,… được sử dụng tinh tế và khéo léo. Tất cả đưa ta vào quá khứ cùng với những kỷ niệm ngọt ngào, tha thiết và tình nghĩa da diết, son sắt, thủy chung.

Đọc thêm: Phân tích bài thơ Vội Vàng

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu – Mẫu 2

Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, miền Bắc nước ta được phóng thích. Lịch sử đất nước bước sang trang mới. cách mệnh Việt Nam bước vào một thời kì mới. Tháng 10 – 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện với tính chất lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bào thơ Việt Bắc.

Việt Bắc là 1 đỉnh cao của thơ ca cách mệnh Việt Nam thời gian kháng chiến chống Pháp, Tác phẩm được chia khiến hai phần: Phần đầu tái hiện quá trình khổ nhưng vinh quang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã phát triển thành các kỉ niệm sâu nặng trong lòng người cán bộ kháng chiến. Phần sau kể lên sự gắn bó giữa miền ngược sở hữu miền xuôi trong viễn cảnh đất nước hòa bình và kết thúc là lời tụng ca công ơn của bác bỏ, của Đảng đối có dân tộc.

Việt Bắc xây dựng thương hiệu vào thời khắc giao thời của lịch sử quốc gia, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chấm dứt thắng lợi, lúc trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Giữa lúc đó, phổ thông điều có thể sẽ rất dễ đổi thay. Cuộc sống im vui dễ làm cho người ta quên đi các tháng năm kháng chiến gian khổ, dễ quên đi nơi đã đùm bọc chở che cho mình. Vào đúng thời khắc nhạy cảm ấy, bài thơ thành lập như 1 lời nhắn gửi thật tâm về nghĩa tình và sự thủy chung.

Chọn hình thức biểu thị là lối đối đáp ta với mình của ca dao giữa người đi (người cán bộ miền xuôi) vè kẻ ở(nhân dân Việt Bắc), bài thơ đã vượt ra khỏi các cảm xúc riêng tư. Khúc giao duyên tâm can kia lại đang chuyển vận chuyển một vấn đề rất lớn của đời sống cách mệnh – ấy là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng mang nhân dân.

Đoạn trích nằm trong cấu trúc chung của phần mở màn và phần 1 của bài thơ – niềm hoài niệm về một Việt Bắc giam khổ và tình nghĩa trong kháng chiến. Bài thơ được chiển khai theo hình thức đối đáp giữa người đi vàkẻ ở, thứ thơ này sắp gủi có ca dao, nó là hình thức của kiểu dối đáp giao duyên truyền thống. bên cạnh đó, trên chiếc nền truyền thống quen thuộc ấy, bài thơ vẫn truyền chuyên chở được 1 vấn đề tư tưởng lớn lao như đã nhắc ở trên.

Bài thơ sở hữu dáng dấp hình thức lối đối đáp ta với mình của ca dao. ngoài ra, việc tiêu dùng hai đại từ này trong bài thơ khá linh hoạt. Mình sở hữu lúc chỉ người cán bộ miền xuôi, ta chỉ quần chúng.

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Nhưng cũng mang khi ta lại chỉ người đi, mình chỉ kẻ ở:

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Trong trường hợp khác, hình thức biểu lộ kiểu ca dao đó còn linh hoạt hơn:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…

Phân tích bài thơ việt bắc của tố hữu

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Xem thêm: Phân tích sức sống tiềm tàng của mị trong đêm tình mùa xuân

Với thể kể, việc đổi thay liên tục ý nghĩa biểu đạt của 2 từ ta với mình là 1 sự thông minh đầy ấn tượng của thi sĩ. hai từ này có lúc hình thành 1 cuộc đối đáp đích thực của người đi và kẻ ở, song có lúc nó chỉ là sự phân thân tự biết của người đi để đáp lại tình nghĩa sâu nặng của kẻ ở. Sự giao thoa đấy, vốn dĩ đã tạo nên một cảnh tiễn biệt chùng chình nhớ thương. Sau nữa, nó góp phần làm cho cả 1 bài thơ dài không bị nhàm chán. đặc trưng, nó tạo nên độ sâu về tư tưởng cho bài thơ.

Tâm cảnh bao trùm phần đầu của bài thơ là nỗi nhớ. Trong đó, đặc thù những kỉ niệm kháng chiến hiện về tươi rói trong hồi ức của nhờ thơ. Niềm hồi ức được hình thành trong khoảng các thắc mắc – đáp. Theo đấy, Việt Bắchiện lên có phần nhiều những nét đặc trưng, sở hữu tất cả các yêu thương, gian truân, tình nghĩa.

Việt Bắc trong trí nhớ của những đội viên cách mạng là những ngày “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”. thời gian, ko gian mờ trong sương khó hoài niệm. ngẫu nhiên rất đặc trưng cho ko gian núi rừng Việt Bắc, nhưng dòng gợi phổ biến nhớ nhung nhất chính là các ngày gieo neo, đắng cay mà nghĩa tình mang “miếng cơm chấm muối”, “bát cơm sẻ nửa”, “củ sắn lùi”… Kỉ niệm về Việt Bắc còn với hình ảnh tảo tần của các người mẹ:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.

2 chữ “cháy lưng” đủ nhắc lên bao xót thương cũng như ơn nghĩa mà người cán bộ miền xuôi dành cho người mẹ Việt Bắc. cạnh tranh gian khổ tương tự, nhưng sở hữu cách mệnh, mang kháng chiến, đồng bào vẫn 1 lòng son sắt thủy chung. Lời nhắn gửi đã nói lên tất cả:

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà long son.

Với thể coi Việt Bắc là một trong các điển hình của thơ ca cách mạng. Tiếng thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu mặn mà tính dân tộc. Ở Việt Bắc, tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu biểu đạt ở lối kết cấu đậm chất ca dao, ở giọng điệu lục bát điêu luyện, ngọt ngào. Nhờ thế mà chẳng những bài thơ nhắc được những trắc trở với ý nghĩa lớn lao của thởi đại mà nó còn khơi được đúng vào chỗ sâu thẩm nhất trong truyền thống ân nghĩa, thủy chung ngàn đời của nhân dân ta.

Việt Bắc là một câu chuyện lớn, là một vấn đề tư tưởng được biểu thị bằng một cảm nhận với tính riêng tây. Bài thơ gợi về những ơn nghĩa, nói nhở sự thủy chung của con người đối mang con người và đối sở hữu quá khứ cách mạng nói chung.

Tạm kết:

Trên đây Tạp Chí Giáo Dục chúng tôi đã gửi đến bạn các mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Qua những thông tin trên hy vọng sẽ giúp bạn có được bài phân tích hay nhất về tác phẩm này. Còn nếu bạn có thắc mắc gì hay vấn đề gì không hiểu khi đọc bài viết này; thì hãy bình luận dưới bài viết nhé. Chúng tôi sẽ giải đáp những thắc mắc đó cho bạn một cách chi tiết nhất.

Tham khảo thêm:

Phân tích tình huống truyện chiếc thuyền ngoài xa

Phân tích tác phẩm vợ chồng a phủ

Phân tích bài thơ Sang Thu

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

- Advertisement -spot_img

Latest