Phân tích tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở – Nam Cao

Date:

Đề bài: Phân tích tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

BÀI LÀM

Có lẽ mọi người thường nhắc đến tình yêu với những viễn cảnh lãng mạn, đẹp đẽ và tình tứ. Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng xuất hiện một mối tình khiến không ít người để tâm. Đó là mối tình của Chí Phèo và Thị Nở. Nhưng tình yêu này không hẳn là thứ tình yêu mà mọi người vẫn thường hay nghĩ, mà sâu xa hơn tình yêu ấy còn là lòng thương cảm, là một sự kiện lớn trong nền văn học hiện thực của Việt Nam. Ở đó, Nam Cao đã dùng tình yêu để trao cho nhân vật của mình một cơ hội được làm lại cuộc đời. Nhưng tình yêu dù lớn thế nào cũng vẫn nằm trong khuôn khổ của thực tại. Nhưng điểm khác biệt ở đây là tình yêu ấy được nhà văn thể hiện qua lăng kính của văn học hiện thực nhân đạo, của giai cấp, của xã hội.

Tác phẩm xoay quanh những biến cố trong cuộc đời Chí. Nếu lấy tình yêu làm điểm mốc, ta có thể chia cuộc đời Chí thành hai giai đoạn lớn là trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị, Chí là một tên lưu manh được Nam Cao miêu tả tóm gọn bằng hai từ “ghê tởm”. Hệ quả ấy là do những tháng ngày trong tù đã nhào nặn Chí từ một người nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng vũ đại vừa ghét vừa sợ. Sau khi gặp Thị Nở, cùng với tình yêu chớp nhoáng từ người đàn bà dở hơi ấy, đời Chí đã bước sang một trang mới tươi sáng hơn, tràn đầy niềm tin và hi vọng. Nhưng hạnh phúc chẳng được bao lâu lại vụt tắt khi Thị nghe theo lời bà cô từ chối tình yêu của Chí. Lại một lần nữa Chí rơi vào tuyệt vọng. Nhưng lần này khác với những lần trước, bởi Chí đã ý thức được cuộc đời mình, Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn để giữ bản thân mình nguyên vẹn không bị quay trở lại con đường làm quỷ dữ như trước kia nữa.

Phân tích tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở

Điều đáng nói ở đây là tình yêu của Chí và Thị tuy chỉ là một mối tình chóng vánh, hay còn gọi là tình yêu sét đánh như mọi người vẫn thường hay nói. Nhưng tình yêu này không chỉ đơn thuần dừng lại ở những cảm tính thông thường, ở xác thịt của hai con người nam và nữ, mà hơn hết nó làm thức tỉnh ý thức làm người của một con người đã chìm đắm trong mê muội, trong men say suốt bấy lâu nay. Nhất là khi Chí không còn ý thức về sự tồn tại của mình, còn Thị cũng chỉ là một người đàn bà dở hơi, xấu xí nhưng tình yêu đã làm thay đổi con người của cả hai. Từ một kẻ say xỉn, chuyên rạch mặt ăn vạ sau đêm tình bên bụi chuối đã trở thành một con người hiền lành, giàu tình yêu thương và lòng trắc ẩn.”Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dây, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn.” Lần đầu tiên Chí nhận ra “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. Tình yêu làm cho Chí buồn. Nhưng cái buồn ấy là dấu hiệu của hạnh phúc. Bởi biết buồn nghĩa là Chí đã quay trở lại làm một con người bình thường. Không như trước đây, Chí chỉ biết có rượu chứ có biết đâu là buồn hay vui. Rượu và những tiếng chửi chua chát, nghiệt ngã. Giờ đây Chí buồn vì tại sao mình không được yêu sớm hơn, tại sao mình không nhận ra những hương vị thường ngày của cuộc sống, rất đơn giản thôi nhưng đầy thi vị. Khác hẳn với men rượu, với những cơn say. Còn về thị, một người đàn bà tuy dở hơi, xấu xí nhưng không hiểu tình yêu có phép lạ gì mà thị vẫn ý thức được mình phải làm gì khi “người yêu” bị ốm. Thị kéo Chí về lều, nấu cho hắn một bát cháo hành. Là thị, hay là tình yêu của thị đã biến đổi cuộc đời Chí? Thêm vào đó là bát chó hành đầy tình nghĩa, đầy yêu thương càng làm cho Chí xúc động và khát khao được hòa với mọi người, được sống một cuộc sống ấm êm như trước đây Chí từng ước mơ. Chí ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải chăm non con cái, nhà cửa. Có lẽ ước mơ ấy không chỉ của riêng chí mà là của tất cả mọi người nông dân cùng thời lúc bấy giờ.

Như vậy, chính tình yêu đã cảm hóa nhân cách của hai con người. Một kẻ say triền miên với lòng thù hận, còn một kẻ dở hơi với “nhan sắc” được nhà văn tóm gọn trong mấy từ “xấu ma chê quỷ hờn”. Nhưng khi được nhìn và cảm nhận qua tình yêu, thị lại có duyên một cách lạ lùng. Chi tiết ấy khá khôi hài nhưng không kém phần sâu sắc. Bởi chỉ có tình yêu mới làm con người ta có cái nhìn tích cực đến vậy. Mặt khác, trong hoàn cảnh này, tình yêu còn cứu sống cả một con người tưởng chừng như đang rơi vào vực thẳm của tuyệt vọng, của khổ đau và tội lỗi nhưng lại được tình yêu nâng lên đến bến bờ của hạnh phúc, của hi vọng. Chí buồn nhưng người đọc lại mừng. Mừng vì Chí đã đổi thay. Đã có ý thức về bản thân mình. Còn thị tuy dở hơi những cũng nghĩ được đến hai chữ “vợ chồng”. “Tiếng vợ chồng thấy ngường ngượng mà thinh thích”.

Câu chuyện tình Chí Phèo – Thị Nở không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của khác nhưng lại là điểm dấu ấn quan trọng cho cuộc đời Chí, cho những biến cố tiếp theo mà Nam Cao đã khéo léo gài dựng. Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để “nhớ rằng hắn có ở đời”. Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành “cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại”. Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con người.

Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành” và một đôi môi “cũng cố to cho không thua cái mũi” hơn nữa, lại dày và có “màu thịt trâu xám ngoách”. Toàn bộ “nhan sắc” của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là “xấu đến ma chê quỷ hờn”. Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo – Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.

Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ “xanh rời rợi như là ướt nước”. Cây dâu tây gần bờ sông thì “thân mềm oặt”, những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì “nằm ngửa, ưỡn cong cong lên” thỉnh thoảng lại “giẫy lên đành đạch như là hứng tình”. Cái bóng – dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.

Nhưng sau tất cả, dù thế nào đi nữa, tình yêu vẫn phải gắn liền với thực tế. Mà thực tế lại quá bất hạnh cho cuộc đời Chí khi Chí vốn chỉ là một thằng chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Thị dở hơi nhưng người bà cô của thị đâu có dở để cho cháu mình đi lấy một thằng không những không cha không mẹ mà còn lưu manh, dữ tợn. Dù thị có xấu xí đến mức ma chê quỷ hờn thì ngoài kia cũng vẫn còn nhiều thằng đàn ông xứng đáng với thị hơn Chí. Lại thêm một lần nữa, Chí bị đẩy xuống bước đường cùng, xuống tận đáy của xã hội. Nhưng tình yêu đã làm cho Chí thay đổi. Dù Chí vẫn tìm đến rượu và lại say. Nhưng cơn say lần này khác với những cơn say trước kia. Lại thêm hương cháo hành phảng phất lẫn với men rượu càng cho Chí như trở nên điên cuồng với tình yêu vừa bị rũ bỏ. Chí nhắm đích đến cuối cùng của mình chính là Bá Kiến. Chính hắn là kẻ đã khiến Chí trở thành con người tàn tạ như bây giờ. Cũng chính vì thế Chí mới bị thị Nở cự tuyệt. Đúng. Đúng vậy. Chí nhắm đúng lắm. Là Bá Kiến chứ không phải bất kỳ một ai khác đã đẩy Chí từ hết bi kịch này đến bi kịch khác. Lòng thù hận của Chí lại sôi sục nổi dậy. Có lẽ nỗi đau bị cha mẹ bỏ rơi từ khi mới lọt lòng còn không đau bằng nỗi đau bị người mình yêu từ chối. Bởi tình yêu ấy hơn hết tất cả tình yêu khác. Tình yêu ấy đã vực dậy Chí từ những cơn say triền miên, đã đưa Chí đi từ vũng bùn lầy lội của tội lỗi đến với những niềm mơ ước giản đơn mà thánh thiện. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến.

Giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Đây là cách mà Chí Phèo lựa chọn để ngăn không cho bản thân mình quay trở lại làm một con quỷ dữ như trước đây nữa. Chí thà chết đi còn hơn sống lay lắt, sống nhục nhã, sống mà như không sống, sống mà không được nhìn nhận làm người.

Như vậy, chính tình yêu đã làm thay đổi tất cả. Nhà văn đã rất thành công khi đưa tình yêu lên một bậc cao mới ý nghĩa hơn, cao thượng hơn và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ hơn rất nhiều những tình yêu đôi lứa thông thường khác. Tình yêu ấy không những làm cho Chí Phí – Thị Nở bừng tỉnh giữa cuộc đời đầy mê muội mà còn làm cho người đọc có cái nhìn mới tình yêu. Rằng tình yêu rất cao đẹp nhưng luôn đi liền với thực tế hiện tại. Tình yêu và cuộc sống phải hài hòa với nhau mới có thể tạo thành một tình yêu viên mãn và trọn vẹn.

Share post:

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here